
Tiểu sử
Phạm Văn Khoa sinh ra vào ngày 15 tháng 3 năm 1913 trong một gia đình nông dân trung lưu ở làng Đông Tạ, nơi mà ngày nay là thị trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, thuộc thành phố Hải Phòng. Ông đã bắt đầu tham gia vào các hoạt động văn hóa và cách mạng từ khi còn trẻ. Vào năm 1937, ông hoạt động trong Hội Truyền bá Quốc Ngữ, đồng thời là giảng viên dạy tiếng Pháp và tiếng Hoa. Ông từng là thành viên của đoàn kịch Thế Lữ (cùng với Thế Lữ, Song Kim, Phạm Văn Đôn, Trịnh Như Lương, Trần Đình Thọ,...), và đã tham gia diễn xuất trong các vở kịch như "Lọ vàng" (dựa theo "Lão hà tiện" của Molière) và "Khóc lên tiếng cười" (của Bùi Huy Phồn). Ông đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1942.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông cùng với Đặng Thai Mai đã thành lập Ban kịch Hoa Lan, và đã tổ chức công diễn vở kịch "Lôi Vũ" (của Tào Ngu). Khi cuộc kháng chiến nổ ra, ông tiếp tục tham gia Đoàn kịch Chiến thắng cùng với Thế Lữ, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ, Song Kim,... để đi lưu diễn và phục vụ kháng chiến. Tại khu vực an toàn, ông được giao nhiệm vụ làm chủ nhiệm tờ báo "Cờ giải phóng". Sau đó, tại chiến khu Việt Bắc, ông làm việc tại Báo Sự thật – cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông cũng là ủy viên thường vụ của Đoàn sân khấu Việt Nam.
Sau khi điện ảnh cách mạng Việt Nam được thành lập vào ngày 15 tháng 3 năm 1953 theo sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông giữ chức vụ Giám đốc Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam, đồng thời là tổng biên tập của tờ báo Điện ảnh. Sau đó, ông trở thành giám đốc của Xưởng phim Việt Nam, Xưởng Phim truyện Việt Nam (được tách ra từ Xưởng phim Việt Nam, hiện nay là Hãng phim truyện Việt Nam) từ năm 1956 đến năm 1959. Ông là một trong những người có công lao lớn trong việc xây dựng nền điện ảnh cách mạng Việt Nam sau này. Trước khi ngành điện ảnh được thành lập, ông đã cùng với một số nhà điện ảnh Trung Quốc thực hiện bộ phim tài liệu nghệ thuật "Việt Nam kháng chiến". Vào năm 1955, ông cùng với đạo diễn, Nghệ sĩ Nhân dân Liên Xô Roman Karmen thực hiện bộ phim tài liệu "Việt Nam trên đường thắng lợi" (sau này được biết đến với tên gọi "Việt Nam").
Vào năm 1958, ông bắt đầu sự nghiệp đạo diễn với bộ phim hài "Vườn cam". Trong những năm tiếp theo, ông đã thực hiện hàng loạt bộ phim như: "Lửa trung tuyến" (1961, hợp tác với Lê Minh Hiến), "Lửa rừng" (1966), "Lửa" (1969), "Sau cơn bão" (1970), "Kén rể" (1975), "Khôn dại" (1976), "Chị Dậu" (1980), "Làng Vũ Đại ngày ấy" (1983), "Sẽ đến một tình yêu" (1983)... Vào năm 1984, ông được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân trong đợt tặng thưởng đầu tiên. Vào năm 1985, ông nhận Huân chương Độc lập hạng Ba.
Phạm Văn Khoa qua đời vào ngày 24 tháng 10 năm 1992 tại Hà Nội, hưởng thọ 79 tuổi.
Đời tư
Toàn bộ gia đình của Phạm Văn Khoa đều có sự nghiệp gắn liền với nghệ thuật. Vợ của ông, Bích Châu (1934–1988), là một nữ diễn viên nổi tiếng của Nhà hát kịch Việt Nam. Con gái của ông, Phạm Nhuệ Giang, cùng với con rể Nguyễn Thanh Vân (con trai của đạo diễn, Nghệ sĩ Nhân dân Nguyễn Hải Ninh), đều là những đạo diễn điện ảnh tài năng.
Tác phẩm
Sự nghiệp đạo diễn của Phạm Văn Khoa bắt đầu với bộ phim truyện "Vườn cam" vào năm 1958, một tác phẩm phản ánh phong trào hợp tác xã nông nghiệp thời bấy giờ, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu, hủ tục lạc hậu còn tồn tại trong xã hội. Tiếp theo đó, ông thực hiện bộ ba phim về đề tài chiến tranh mang tên "Lửa trung tuyến" (1961), "Lửa rừng" (1966) và "Lửa" (1968). Loạt phim này tập trung vào chủ đề những người lính trở về từ chiến trường. Đặc biệt, với "Lửa trung tuyến" (dựa trên truyện ngắn "Cô Nhàn" của Văn Dân), ông đã nhận được bằng khen thưởng từ Hội Điện ảnh Liên Xô tại Liên hoan phim Quốc tế Matxcơva (1961) và Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 (1973).
Từ năm 1972, Phạm Văn Khoa hợp tác cùng nhà biên kịch Duy Cường, tiếp tục thực hiện các bộ phim "Sau cơn bão", "Kén rể", "Khôn dại". Trong những tác phẩm này, ông đã khéo léo sử dụng tiếng cười hóm hỉnh, nhẹ nhàng để châm biếm những hành vi làm ăn bất chính, những phần tử lạc hậu, cán bộ tham nhũng, thoái hóa, như Phó chủ nhiệm hợp tác xã trong "Sau cơn bão", bà mẹ trong "Kén rể", hay lên án một số cán bộ kinh doanh nhà nước có hành vi buôn gian bán lận, sống xa hoa trác táng trong "Khôn dại". Hai bộ phim để lại ấn tượng sâu sắc nhất của ông chính là "Chị Dậu" (chuyển thể từ "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố) và "Làng Vũ Đại ngày ấy" (chuyển thể từ "Sống mòn", "Chí Phèo", "Lão Hạc" của Nam Cao), được khán giả đón nhận nồng nhiệt và ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử điện ảnh Việt Nam. Với bộ phim "Chị Dậu", ông đã vinh dự nhận Huy chương vàng tại Liên hoan phim Nantes ở Pháp, còn bộ phim "Làng Vũ Đại ngày ấy" được gửi đi tham dự Liên hoan phim quốc tế tại Hawaii. Ngoài ra, ông còn có những tác phẩm chuyển thể từ sân khấu như "Thái hậu Dương Vân Nga", "Đô đốc Bùi Thị Xuân".
Năm 2007, ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật cho ba tác phẩm xuất sắc: "Lửa trung tuyến", "Chị Dậu" và "Làng Vũ Đại ngày ấy".