NGHỆ SĨ

Chế Linh

Văn Tuấn

Chế Linh (sinh ngày 3 tháng 4 năm 1942) là một ca sĩ người Chăm nổi tiếng, đồng thời còn sáng tác nhạc dưới các bút danh Tú Nhi và Lưu Trần Lê. Ông bắt đầu được công chúng biết đến từ thập niên 1960 và được xem là một trong bốn giọng ca nam tiêu biểu của dòng nhạc vàng thời kỳ đầu – thường được gọi là "Tứ trụ nhạc vàng", bên cạnh ba tên tuổi lớn khác: Duy Khánh, Nhật Trường và Hùng Cường, mỗi người đều mang một phong cách riêng biệt.

 

Tiểu sử

Chế Linh có tên khai sinh là Jamlen (Trà-len), tên Việt là Lưu Văn Liên, sinh ngày 3 tháng 4 năm 1942 tại Paley Hamu Tanran, một địa điểm gần Phan Rang, nay thuộc làng Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Khi mới lên bốn tuổi, ông đã phải chịu cảnh mất cha. Sau khi hoàn tất bậc tiểu học theo chương trình Pháp tại trường làng, nơi ông được các linh mục người Pháp truyền dạy những kiến thức âm nhạc cơ bản, Chế Linh tiếp tục theo học trung học tại trường Bồ Đề ở Phan Rang.

Đến tháng 8 năm 1959, ông rời quê lên Sài Gòn một mình để tìm cơ hội lập nghiệp. Tại đây, ông được một người chủ gốc Hoa thuê làm việc nhà. Vị chủ này không chỉ trả công hậu hĩnh mà còn tạo điều kiện cho Chế Linh tiếp tục theo học, giúp ông ổn định cuộc sống bước đầu nơi đất khách.

Sự nghiệp

Vào năm 1962, Chế Linh tham gia đoàn văn nghệ Biệt Chính Biên Hòa – một đơn vị lưu diễn phục vụ tại các vùng nông thôn xa xôi ở khu vực Biên Hòa. Tại đây, ông biểu diễn cùng với các nhạc sĩ Châu Kỳ và Trúc Phương, một phần vì mức thù lao hấp dẫn. Hai năm sau, khi đoàn văn nghệ giải tán, ông chuyển sang làm tài xế chuyên chở đá tại núi Bửu Long, làm việc cùng nhạc sĩ Bằng Giang. Trong thời gian này, ông vừa lao động vừa luyện giọng và bắt đầu sáng tác nhạc – đánh dấu sự khởi đầu cho niềm đam mê âm nhạc ngày càng lớn dần trong ông. Nhạc sĩ Bằng Giang, người đồng hành và hiểu rõ ước mơ nghệ thuật của Chế Linh, đã động viên ông theo đuổi con đường ca hát khi thấy ông đã đủ bản lĩnh. Cả hai cùng hợp tác cho ra đời nhiều ca khúc nổi tiếng như Bài ca kỷ niệm, Đêm buồn tỉnh lẻ, Đoạn tái bút...

Khoảng một năm sau, Châu Kỳ và Trúc Phương tìm gặp lại Chế Linh, khuyên ông trở về Sài Gòn để tiếp tục sự nghiệp. Hai nhạc sĩ này đã sáng tác riêng cho ông nhiều ca khúc mang chủ đề người lính, nhưng không gắn liền với một binh chủng cụ thể, với ca từ mộc mạc, dễ đi vào lòng người.

Năm 1964, Chế Linh ký hợp đồng với hãng đĩa Continental và phát hành đĩa nhựa đầu tiên mang tên Vùng biển trời và màu áo em. Sau đó, ông tiếp tục hợp tác cùng hãng Dĩa Hát Việt Nam.

Dù ca sĩ đầu tiên song ca cùng ông là Thanh Tâm, nhưng Thanh Tuyền mới là người mang lại sự kết hợp ăn ý nhất trên sân khấu. Vào khoảng năm 1967–1968, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông muốn làm mới thị trường âm nhạc và tạo sự khác biệt nên đã ghép cặp Thanh Tuyền với Chế Linh để hát song ca. Đĩa nhạc đầu tiên có ca khúc Hái hoa rừng cho em của Trương Hoàng Xuân được phát hành và lập tức gây tiếng vang. Thành công này khiến nhiều hãng đĩa khác tiếp tục khai thác sự kết hợp của cặp đôi này.

Chế Linh biểu diễn trước năm 1975.

Năm 1972, ông được vinh danh với giải thưởng Kim Khánh – Huy chương vàng dành cho nam ca sĩ xuất sắc nhất do nhật báo Trắng Đen tổ chức. Tuy nhiên, cũng trong năm này, vào thời điểm chiến sự mùa hè đỏ lửa, Chế Linh bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa cấm biểu diễn do nội dung một số ca khúc bị cho là không phù hợp.

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông bị bắt giữ tại ga Sông Mao (thuộc Hải Ninh, Bắc Bình) với cáo buộc "phản động" và bị giam giữ biệt lập suốt 28 tháng. Sau khi ra khỏi trại giam, ông đã vượt biên thành công sang Malaysia, rồi định cư tại Toronto, Canada. Ở đây, ông mở một số cơ sở kinh doanh và tiếp tục biểu diễn tại nhiều nơi có cộng đồng người Việt sinh sống.

Đến năm 2007, Chế Linh trở về Việt Nam lần đầu tiên trong khuôn khổ một chương trình biểu diễn do đoàn văn hóa UNESCO tổ chức. Năm 2011, ông tổ chức liveshow kỷ niệm "30 năm tái ngộ" tại Hà Nội. Kể từ đó, ông nhiều lần quay lại Việt Nam để biểu diễn và du lịch.

Gia đình

Khi 21 tuổi, Chế Linh lập gia đình lần đầu tiên và có 5 người con trong vòng 4 năm chung sống. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân này kết thúc khi đứa con út của họ vừa chập chững biết đi. Sau đó, ông kết hôn lần thứ hai với em gái của người vợ đầu và tiếp tục gắn bó trong 4 năm, có thêm 4 người con.

Đến năm 1972, ông kết hôn với người vợ thứ ba – Thúy Hằng – khi bà mới 17 tuổi. Họ có với nhau 2 người con. Không lâu sau, ở tuổi 20, Thúy Hằng đã qua đời do tự sát.

Cuối năm 1975, Chế Linh kết hôn lần thứ tư với bà Vương Nga. Cuộc hôn nhân này mang đến cho ông thêm 3 người con nữa.